Đặc điểm Cừu_Charollais

Đầu chúng có màu hồng nâu, cơ thể chúng dài về phía sau, hình nêm và nổi cơ bắp. Những cái chân của chúng có màu nâu, khá ngắn. Tại thời điểm trưởng thành, cừu đực nặng 135 kg (300 lb) và cừu cái nặng 90 kg (200 lb). Lông cừu thường nặng từ 2 đến 2,5 kg (4,4 và 5,5 lb) và có chiều dài khoảng 4–6 cm (1,6-2,4 in) với đường kính 29-30,5 microns. Chất lượng len tốt. Cừu đực thuần chủng sẵn sàng giao phối trong hầu hết các năm và duy trì khả năng này lâu dài. Nhiều con đực vẫn đang làm việc duy trì giống khi đang bảy tuổi và một số sống đến mười tuổi. Các con cừu cái có một mùa sinh sản khá lâu và sung mãn; Các con chiên có một tốc độ tăng trưởng nhanh chóng và cừu có thể được nhân giống lúc bảy tháng.

Chúng có một cái đầu cừu trắng đôi khi nhuốm màu đỏ hoặc màu xám. Chúng có kỹ năng làm mẹ rất tốt và sinh sản rất sung mãn. Hơn nữa lượng sữa tiết ra phong phú của con cừu mẹ cho phép con chiên tăng trưởng nhanh chóng. Nó cũng là một giống cừu khỏe mạnh, có khả năng thích ứng với khí hậu khác nhau. Tất cả những phẩm chất tốt đó làm cho giống cừu Charollais không chỉ phổ biến ở Pháp mà còn ở nước ngoài, nơi nó được phát triển nhanh chóng.

Trong các giống sử dụng cừu Charollais là giống chuyên thịt. Ở giống cừu này, con đực và con cái đều không có sừng, thân hình trụ, phần thân sau phát triển tốt, độ len lông 56-58, lông màu trắng và ngắn. Con đực trưởng thành nặng 100–150 kg, con cái trưởng thành nặng 75–95 kg, con cái lần đầu sinh có tỷ lệ cừu non là 130%-140%, đối với con cái đã từng sinh tỷ lệ này là 180-190%. Con mẹ tiết sữa nhiều, mẫu tính tốt, hoàn toàn có thể nuôi cặp cừu non song sinh. Để tăng khả năng sinh sản của cừu, bằng phương pháp là cho lai các giống địa phương với các giống cừu ngoại sinh sản tốt, cho thịt nhiều như các giống cừu: cừu Romanov, cừu Phần Lan Finish, cừu Charollais, cừu Suffolk, cừu Texel.

Trán chúng phẳng, xương mũi lồi ra, chúng có hố nước mắt, mõm của chúng mỏng, môi hoạt động, răng cửa sắc, nhờ đó chúng có thể gặm được cỏ mọc thấp và bứt được những lá thân cây mềm mại, hợp khẩu vị trên cao để ăn. Chúng có thói quen đi kiếm ăn theo bầy đàn, tạo thành nhóm lớn trên đồng cỏ. Trong da chúng có nhiều tuyến mồ hôi và tuyến mỡ hơn dê. Bởi thế chúng bài tiết mồ hôi nhiều hơn và các cơ quan hô hấp tham gia tích cực hơn vào quá trình điều tiết nhiệt. Mô mỡ dưới da của chúng phát triển tốt hơn dê và ngược lại ở các cơ bên trong của chúng có ít tích lũy mỡ hơn dê.